head_banner

Thị trường máy phát điện hơi nước hỗn loạn

Nồi hơi được chia thành nồi hơi, nồi hơi nước nóng, nồi hơi mang nhiệt và lò cao nóng theo môi trường truyền nhiệt. Các nồi hơi được quy định bởi “Luật An toàn Thiết bị Đặc biệt” bao gồm nồi hơi chịu áp suất, nồi hơi nước nóng chịu áp suất và nồi hơi mang nhiệt hữu cơ. “Danh mục thiết bị đặc biệt” quy định thang đo thông số của nồi hơi được giám sát theo “Luật an toàn thiết bị đặc biệt” và “Quy chuẩn kỹ thuật an toàn nồi hơi” cải tiến các biểu mẫu giám sát của từng liên kết nồi hơi trong thang giám sát.
“Quy chuẩn kỹ thuật an toàn nồi hơi” chia nồi hơi thành nồi hơi loại A, nồi hơi loại B, nồi hơi loại C và nồi hơi loại D tùy theo mức độ rủi ro. Nồi hơi loại D dùng để chỉ nồi hơi có áp suất làm việc định mức ≤ 0,8MPa và thể tích mực nước bình thường theo kế hoạch ≤ 50L. Nồi hơi loại D có ít hạn chế hơn về thiết kế, chế tạo và giám sát, kiểm tra chế tạo, đồng thời không yêu cầu thông báo trước khi lắp đặt, giám sát và kiểm tra quá trình lắp đặt cũng như đăng ký sử dụng. Vì vậy, chi phí đầu tư từ sản xuất đến đưa vào sử dụng thấp. Tuy nhiên, tuổi thọ sử dụng của nồi hơi loại D không được vượt quá 8 năm, không được phép sửa đổi và phải lắp đặt thiết bị báo động quá áp và mực nước thấp hoặc thiết bị bảo vệ khóa liên động.

Nồi hơi có thể tích mực nước bình thường theo kế hoạch <30L không được phân loại là nồi hơi chịu áp lực theo Luật Thiết bị Đặc biệt để giám sát.

10

Chính vì sự nguy hiểm của các nồi hơi nhỏ với lượng nước khác nhau là khác nhau và hình thức giám sát cũng khác nhau. Một số nhà sản xuất trốn tránh sự giám sát và đổi tên mình thành thiết bị bay hơi hơi nước để tránh từ “nồi hơi”. Các đơn vị sản xuất riêng lẻ không tính toán cẩn thận lượng nước của lò hơi và không ghi rõ thể tích của lò hơi ở mực nước bình thường theo kế hoạch trên bản vẽ quy hoạch. Một số đơn vị sản xuất vô đạo đức thậm chí còn chỉ dẫn sai thể tích của lò hơi ở mực nước bình thường theo kế hoạch. Thể tích đổ nước thường được đánh dấu là 29L và 49L. Qua thử nghiệm thể tích nước của máy tạo hơi nước không dùng điện 0,1t/h do một số nhà sản xuất sản xuất cho thấy các thể tích ở mực nước bình thường đều vượt quá 50L. Những thiết bị bay hơi hơi nước này có thể tích nước thực tế vượt quá 50L không chỉ yêu cầu lập kế hoạch, giám sát sản xuất, lắp đặt mà còn yêu cầu giám sát các ứng dụng.

Các thiết bị bay hơi trên thị trường ghi sai dung tích nước dưới 30L hầu hết được sản xuất bởi các đơn vị không có giấy phép sản xuất nồi hơi, thậm chí là các bộ phận sửa chữa hàn và tán đinh. Bản vẽ của những máy tạo hơi nước này chưa được phê duyệt kiểu và cấu trúc, độ bền và nguyên liệu thô chưa được các chuyên gia phê duyệt. Phải thừa nhận rằng nó không phải là một sản phẩm rập khuôn. Khả năng bay hơi và hiệu suất nhiệt ghi trên nhãn là kết quả kinh nghiệm chứ không phải thử nghiệm hiệu quả năng lượng. Làm thế nào một thiết bị bay hơi hơi nước với hiệu suất an toàn không chắc chắn có thể tiết kiệm chi phí như nồi hơi?

Thiết bị bay hơi hơi nước có thể tích nước được đánh dấu sai từ 30 đến 50L là nồi hơi loại D. Mục đích là để giảm bớt các hạn chế, giảm chi phí và tăng thị phần.

Thiết bị bay hơi hơi nước có thể tích đổ đầy nước được đánh dấu sai sẽ tránh bị giám sát hoặc hạn chế và hiệu quả an toàn của chúng bị giảm đi đáng kể. Hầu hết các đơn vị sử dụng máy tạo hơi nước đều là doanh nghiệp nhỏ, năng lực quản lý vận hành thấp, tiềm ẩn rủi ro là cực kỳ cao.

Đơn vị sản xuất ghi sai thể tích nạp nước vi phạm “Luật chất lượng” và “Luật thiết bị đặc biệt”; đơn vị phân phối không xây dựng các tiêu chuẩn về kiểm tra, nghiệm thu và hồ sơ bán hàng thiết bị đặc biệt vi phạm “Luật Thiết bị đặc biệt”; đơn vị sử dụng đã sử dụng sản xuất bất hợp pháp, không có sự giám sát và kiểm tra, đồng thời nồi hơi đã đăng ký vi phạm “Đạo luật về thiết bị đặc biệt”, và việc sử dụng nồi hơi do các đơn vị không có giấy phép sản xuất được phân loại là nồi hơi không áp suất để sử dụng áp suất và vi phạm “Đạo luật về thiết bị đặc biệt” .

Thiết bị bay hơi hơi nước thực chất là một nồi hơi. Nó chỉ là vấn đề về hình dạng và kích thước. Khi dung tích nước đạt đến một mức nhất định, rủi ro sẽ tăng cao, gây nguy hiểm đến tính mạng và tài sản của người dân.


Thời gian đăng: 13-12-2023